Kết thúc ngày giao dịch hôm qua (14/09), diễn biến phân hoá chia bảng giá hàng hoá nguyên liệu thế giới thành 2 nửa xanh đỏ. Chốt phiên giao dịch ngày 14/9, những lo ngại về nguồn cung khiến giá dầu tăng 1%, trong khi đồng, nhôm, sắt thép đồng loạt giảm, cà phê arabica giảm gần 3%.
Nội dung
Giá dầu lấy lại sắc xanh sau báo cáo tháng của IEA
Bất chấp mức giảm trong phiên sáng, giá dầu lấy lại sắc xanh ngay sau khi báo cáo thị trường dầu tháng 9 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế IEA được công bố. Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch ngày 14/09, giá WTI tăng 1,34% lên 88,48 USD/thùng trong khi giá Brent tăng 1% lên 94,1 USD/thùng.
Hôm qua tiếp tục là một phiên giao dịch đầy biến động đối với thị trường, khi giá dầu trong phiên liên tục giằng co mạnh với các lực trái chiều trên thị trường.
Dù vậy, giá dầu lấy lại sắc xanh sau khi EIA điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong năm 2022 thêm 380.000 thùng/ngày lên 2,1 triệu thùng/ngày. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc các nước châu Âu và châu Á chuyển từ sử dụng khí tự nhiên sang dùng dầu để sản xuất điện. Theo Platts Analytics, trong quý IV/2022, nhu cầu chuyển đổi có thể đẩy tiêu thụ dầu tăng thêm gần 450.000 thùng/ngày, trong khi quý I/2023 có thể sẽ đạt đến trên 600.000 thùng/ngày. Theo kỳ vọng của IEA, nhu cầu tiêu thụ dầu sẽ đạt 99,7 triệu thùng/ngày trong 2022 và 101,8 triệu thùng/ngày trong năm 2023.
Về phía nguồn cung, mặc dù IEA điều chỉnh tăng sản lượng dầu của Nga, tuy nhiên lại hạ dự báo cho sản lượng dầu Bắc Mỹ. Với giá dầu biến động mạnh và có những lúc điều chỉnh về vùng đáy 6 tháng, các nhà sản xuất không có nhiều động lực để tăng chi đầu tư cho các giếng dầu. Và mặc dù IEA kỳ vọng tồn kho dầu sẽ tăng với tốc độ 900.000 thùng/ngày trong 3 tháng cuối năm và 500.000 thùng/ngày trong nửa đầu năm 2023, giống như Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Mỹ EIA, IEA cũng không loại trừ khả năng giá dầu tăng mạnh do bất ổn nguồn cung.
Trong khi đó, báo cáo thị trường dầu hàng tuần của EIA cho thây tồn kho dầu thương mại tăng 2,4 triệu thùng trong tuần kết thúc 09/09. Xuất khẩu dầu của Mỹ tiếp tục duy trì ở mức trên 6,3 triệu thùng/ngày, trong khi nhập khẩu giảm do nhu cầu lái xe sẽ giảm dần khi mùa hè kết thúc. Tuy vậy, nếu không tính đến dầu giải phóng từ kho dự trữ SPR, tồn kho thực tế sẽ giảm 6 triệu thùng; và với việc Mỹ sẽ chấm dứt giải phóng dầu SPR trong tháng 10, đồng thời phải triển khai bổ sung dầu trở lại vào kho, giá dầu sẽ vẫn phải duy trì ở mức cao trong các tháng còn lại.
Dự báo thời tiết thuận lợi cho mùa vụ tại Brazil kéo giá cà phê đi xuống
Đóng cửa hôm qua 14/09, sắc đỏ bao trùm trên bảng giá các mặt hàng nhóm nguyên liệu công nghiệp. Arabica dẫn đầu xu hướng giảm của nhóm với mức giảm mạnh 2,65% do kỳ vọng lượng mưa vào cuối tháng sẽ thúc đẩy giai đoạn ra hoa của cây trồng.
Theo Ban khí tượng Nông nghiệp Refinitiv, khu vực trồng cà phê chính tại Brazil sẽ đón nhận một lượng mưa khoảng 80 mm trong vài ngày tới. Thông tin này đang khiến thị trường kỳ vọng sẽ thúc đẩy quá trình ra hoa của cây cà phê, đồng thời cải thiện chất lượng mùa vụ sau thời gian dài đối diện với khô hạn. Đây được cho là nguyên nhân chính khiến giá cà phê nối dài đà giảm với chuỗi 3 phiên liên tiếp trong tuần này.
Theo sau đà giảm của cà phê Arabica, giá dầu cọ thô trong phiên hôm qua cũng suy yếu 1,08%. Sau chuối 3 phiên tăng liên tiếp, lực bán chốt lời của giới đầu cơ là nguyên nhân chính khiến giá mặt hàng này xoay chiều.
Cao su Nhật Bản tăng
Giá cao su Nhật Bản tăng phiên thứ 5 liên tiếp, theo sự gia tăng ở thị trường Thượng Hải, mặc dù đà tăng bị hạn chế bởi cổ phiếu trong nước giảm.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 1,3 JPY lên 224,2 JPY (1,56 USD)/kg.
Tại Thượng Hải giá cao su giao tháng 1/2023 tăng 160 CNY lên 12.730 CNY (1.828 USD)/tấn.
Sản lượng cao su tại Thái Lan có thể bị ảnh hưởng bởi dự báo tiếp tục mưa lớn và cảnh báo lũ lụt.
Các đơn hàng máy móc lõi của Nhật Bản tăng tiếp trong tháng 7, nâng cao hy vọng tăng trưởng chi tiêu kinh doanh có thể bù đắp những khó khăn trong ngắn hạn từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu và đồng JPY suy yếu.
Giá đường giảm
Đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa giảm 0,11 US cent hay 0,6% xuống 18,27 US cent/lb.
Sản lượng đường mạnh hơn dự kiến tại Trung Nam Brazil trong nửa cuối tháng 8 đã giúp giữ vững thị trường. Ngoài ra, Ấn Độ sẵn sàng cho phép xuất khẩu 5 triệu tấn đường trong đợt đầu tiên của năm thị trường mưới bắt đầu từ tháng 10.
Đường trắng kỳ hạn tháng 10, đáo hạn trong ngày 15/9 giảm 1,5 USD hay 0,2% xuống 604,8 USD/tấn, thoái lui từ mức đỉnh 10 năm của phiên trước.
Giá cà phê nội địa vẫn còn nhiều dư địa tăng
Trên thị trường nội địa, giá cà phê nhân xô tại Tây Nguyên và các tỉnh Nam Bộ liên tục giảm từ đầu tuần đến nay. Ghi nhận trọng sáng nay, giá cà phê thu mua tiếp tục giảm thêm 100 đồng/kg sau ngày giảm mạnh trước đó, hiện đang dao động trong khoảng giá 47.100 – 47.700 đồng. Như vậy so với đầu tháng 09, giá cà phê trong nước đã giảm đến 1.000 đồng/kg.
Tuy nhiên, theo MXV, giá cà phê nhiều khả năng chỉ chịu áp lực trong ngắn hạn. Mặt hàng này vẫn còn rất nhiều dư địa tăng khi mà nguồn cung toàn cầu niên vụ tới đang đứng trước nguy cơ sụt giảm, trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ vẫn ổn định và thậm chí có thể gia tăng. Như vậy, ngành cà phê nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội để gia tăng xuất khẩu sang các thị trường quốc tế. Và để đón nhận xu hướng tiêu dùng cà phê mới trên thế giới, các doanh nghiệp trong nước cần chuyển dịch phương thức chế biến, rang xay nhằm phù hợp hơn với thị hiếu của người tiêu dùng từ các thị trường Mỹ hay là châu Âu.
Giá đồng và nhôm giảm
Giá đồng và nhôm giảm do lo sợ lãi suất tăng làm suy yếu triển vọng tăng trưởng kinh tế và giữ USD gần mức cao nhất 20 năm.
USD tăng giá mạnh nhất một ngày kể từ tháng 3/2020, khiến các kim loại định giá bằng đồng tiền này đắt hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác và gây áp lực lên các ngân hàng trung ương khác phải tăng lãi suất. Tại Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới, ngân hàng trung ương dự kiến dừng việc nới lỏng tiền tệ bất chấp nền kinh tế suy yếu.
Giá đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch LME giảm 0,9% xuống 7.801 USD/tấn. Nhôm giảm 1,7% xuống 2.273 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 4/2021 tại 2.227,40 USD/tấn. Cả hai kim loại này đã giảm khoảng 20% trong năm nay.
Bổ sung áp lực với giá nhôm là tồn kho LME tăng lên 345.600 tấn từ 276.050 tấn vào đầu tháng 9. Mặc dù điều đó làm giảm bớt lo ngại về nguồn cung, nhưng hàng tồn kho vẫn thấp dưới mức bình thường. Trong khi đó tồn kho đồng đang giảm tại sàn giao dịch và kho ngoại quan Trung Quốc đang giảm. Nguồn cung hạn hẹp đẩy giá đồng giao ngay cao hơn đồng giao sau 3 tháng trên sàn LME lên khoảng 100 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 11/2021.
Thép Trung Quốc rời khỏi mức cao nhất hai tuần
Giá thép Trung Quốc giảm sau khi đạt mức cao nhất hai tuần trong phiên này, khiến giá thành phần sản xuất thép gồm quặng sắt giảm, những khó khăn với kinh tế toàn cầu bổ sung thêm lo lắng về nhu cầu đối với các kim loại đen.
Lo ngại về sản lượng thép tăng nhanh chóng trong những tuần gần đây trong bối cảnh nhu cầu trong nước phục hồi mong manh, và khả năng những hạn chế Covid-19 gia tăng tại Trung Quốc cũng gây áp lực lên giá sắt thép.
Hợp đồng thép thanh kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa giảm 1,3% xuống 3.741 CNY (537,07 USD)/tấn, kết thúc chuỗi tăng 3 ngày. Thép cuộn cán nóng giảm 1,6% xuống 3.800 CNY/tấn, trong khi thép không gỉ giảm 1,8% xuống 17.065 CNY/tấn.
Giá quặng sắt giao tháng 1/2023 tại sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc giảm 0,7% xuống 720,5 CNY/tấn, cũng giảm từ mức cao nhất hai tuần.
Quặng sắt giao tháng 10 tại Singapore giảm 2,8% xuống 100,45 USD/tấn.
Trong khi đó một cơn bão mạnh lên ở Biển Đông Trung Quốc có thể làm gián đoạn hoạt động xây dựng và các hoạt động khác ở nước này.
Ngô, đậu tương giảm, lúa mì tăng
Đậu tương và ngô của Mỹ giảm do việc bán ra theo yếu tố kỹ thuật khi nhà đầu tư điều chỉnh lại vị thế của họ. Lúa mì mạnh bởi USD giảm và tình trạng không rõ ràng về hành lang xuất khẩu ngũ cốc của Ukraine sau những chỉ trích của Moscow về thỏa thuận này.
Đậu tương Chicago kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 23-3/4 US cent xuống 14,55 USD, thoái lui từ sự gia tăng trong phiên đêm qua.
Ngô kỳ hạn tháng 12 giảm 10-1/2 US cent xuống 6,82-1/4 USD/bushel. Mức kháng cự là 7 USD/bushel, một mức hợp đồng này không cao hơn kể từ ngày 22/6.
Lúa mì mềm đỏ vụ đông giao tháng 12 tăng 11-3/4 US cent lên 8,72-1/4 USD/bushel.